Trung Quốc bắt đầu muộn hơn nhiều quốc gia khác trong việc Đánh giá năng lực đổi mới và tập trung vào việc đánh giá theo hướng lĩnh vực (ngành). Tuy vậy, Trung Quốc đã đạt được tiến bộ liên tục từ vị trí thứ 14 năm ngoái lên vị trí thứ 12 trong năm nay và hiện đang “gõ cửa top 10 GII”, theo “Chỉ số đổi mới toàn cầu (GII) 2021” của WIPO. Bài viết giới thiệu một số thông tin liên quan đến các báo cáo đánh giá năng lực đổi mới sáng tạo ở Trung Quốc trong thời gian gần đây.

a) Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo Quốc gia của Trung Quốc (National Innovation Index-NII)

Học viện Khoa học và Công nghệ Phát triển Trung Quốc xuất bản số đầu tiên Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo vào tháng 2 năm 2011, sử dụng Chỉ số Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NII) để đánh giá hoạt động đổi mới của 40 quốc gia có các hoạt động đổi mới chủ động trên thế giới. Hệ thống chỉ số đằng sau NII dựa trên phương pháp đánh giá của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền như Diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum – WEF) và Viện Phát triển quản lý quốc tế Thụy Sĩ (International Institute for Management Development – IMD), bao gồm 05 Chỉ mục phụ — Nguồn lực đổi mới, Sáng tạo tri thức, Đổi mới doanh nghiệp, Hoạt động đổi mới, Môi trường đổi mới và 31 trụ cột khác làm chỉ số. Báo cáo chọn 40 quốc gia làm mục tiêu và tính toán NII cho điểm bằng phương pháp điểm chuẩn dựa trên dữ liệu thống kê từ năm 2008 đến năm 2010. Kết quả là, Hoa Kỳ đứng số 1 với chỉ số 100 và Trung Quốc đứng thứ 20 với 70,5 điểm.

Báo cáo Chỉ số Đổi mới Sáng tạo Quốc gia mới nhất cho đến nay được công bố vào tháng 8 năm 2018, đã tạo ra một thay đổi trong hệ thống chỉ số của nó so với báo cáo đầu tiên. 30 trụ cột bao gồm 20 Các chỉ số định lượng và 10 chỉ số định tính đều dựa trên số liệu điều tra năm 2016. Theo báo cáo mới nhất, ba quốc gia đứng đầu là Hoa Kỳ, Nhật Bản và Thụy Sĩ, trong khi đó Trung Quốc vẫn giữ vị trí 17 như các báo cáo trước đó.

b) Chỉ số đổi mới của Trung Quốc (China Innovation Index – CII)

CII được phát hành bởi Nhóm Nghiên cứu Chỉ số Đổi mới Trung Quốc (CII), Bộ Quốc gia Cục Thống kê, sử dụng bốn Chỉ số phụ để đánh giá và nghiên cứu chỉ số đổi mới của Trung Quốc: đổi mới Môi trường, đổi mới đầu vào, đổi mới đầu ra và kết quả đổi mới. Các đánh giá đặt năm 2005 làm Thời kỳ gốc và đặt giá trị chỉ số của cùng năm làm giá trị chuẩn để đo tốc độ tăng trưởng của năm hiện tại. Nhóm nghiên cứu sử dụng hệ thống chỉ số trên và các phương pháp Đánh giá Chỉ số Đổi mới của Trung Quốc năm 2012, với kết quả là Chỉ số Đổi mới của Trung Quốc năm 2012 là 148,2 so với 100 của năm 2005.

Theo tính toán của nhóm nghiên cứu mới đây nhất, chỉ số đổi mới của Trung Quốc đạt 242,6 vào năm 2020 (lấy năm 2005 là 100), tăng 6,4 % so với năm trước. Theo lĩnh vực, chỉ số môi trường đổi mới, chỉ số đầu vào đổi mới, chỉ số đầu ra đổi mới và chỉ số hiệu quả đổi mới lần lượt đạt 266,3, 209,7, 319,8 và 174,7, tăng lần lượt là 6,3, 5,4, 8,5 và 3,8% so với năm trước. Kết quả tính toán cho thấy đến năm 2020, năng lực và trình độ đổi mới của Trung Quốc tiếp tục được cải thiện, môi trường đổi mới tiếp tục được tối ưu hóa, đầu vào đổi mới tiếp tục tăng, đầu ra đổi mới tăng nhanh và kết quả đổi mới được thể hiện rõ hơn.   

c) Một số bộ chỉ tiêu Cấp độ Lĩnh vực (Ngành) của Trung Quốc

Báo cáo Đánh giá Khu vực về Năng lực Khoa học, Công nghệ và Đổi mới trong Trung Quốc

Báo cáo Đánh giá Khu vực về Năng lực Khoa học, Công nghệ và Đổi mới ở Trung Quốc được phát hành bởi Học viện Khoa học và Công nghệ Phát triển Trung Quốc. Hệ thống chỉ mục bao gồm năm Chỉ số phụ — đổi mới Môi trường, Đầu vào của khoa học và công nghệ, sản lượng khoa học và công nghệ, Công nghiệp hóa công nghệ cao và Tăng trưởng kinh tế, xã hội từ công nghệ, 12 trụ cột và 39 chỉ số. Mục tiêu đánh giá là năng lực đổi mới của khoa học và công nghệ của 31 tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) trên cả nước.

Báo cáo mới nhất là Báo cáo đánh giá khu vực về Khoa học, Công nghệ và Đổi mới Năng lực ở Trung Quốc được công bố vào ngày 29 tháng 10 năm 2018, thể hiện sự đổi mới quốc gia chỉ số năng lực là 69,63, tăng 2,06 theo năm. Trong khi đó, Thượng Hải, Bắc Kinh và Thiên Tân là ba thành phố đứng đầu về chỉ số năng lực đổi mới tổng thể. Ba khu vực có tốc độ tăng trưởng hàng năm cao nhất là tỉnh An Huy, tỉnh Cát Lâm và tỉnh Chiết Giang.

Chỉ số năng lực đổi mới của các thành phố ở Trung Quốc

Chỉ số năng lực đổi mới của các thành phố ở Trung Quốc lần đầu tiên được giới thiệu trong Báo cáo các thành phố của Trung Quốc về Đổi mới (2008) do Hiệp hội Nghiên cứu Phát triển Đô thị Trung Quốc phát hành vào ngày 31 tháng 11, Năm 2008.

Báo cáo về sự đổi mới của các thành phố của Trung Quốc (2015) là báo cáo mới nhất sử dụng ba chỉ số phụ— Điều kiện đổi mới cơ bản và năng lực hỗ trợ, Năng lực công nghiệp hóa, năng lực đổi mới Thương hiệu và 25 chỉ số khác để xây dựng Chỉ số năng lực đổi mới thành phố. Các báo cáo thu thập các quy trình và tính toán dữ liệu chỉ số của 659 thành phố trong giai đoạn hiện tại từ năm 2014 đến năm 2015 để thực hiện Đánh giá từ cả hai góc độ toàn diện và đơn lẻ theo các cấp và nhóm. Vào tháng 12 năm 2018, Hiệp hội Nghiên cứu Phát triển Đô thị Trung Quốc và các đơn vị khác tổ chức lễ ra mắt Báo cáo các thành phố của Trung Quốc về đổi mới (2016-2019).

Chỉ số Zhong Guancun

Chỉ số Zhong Guancun là chỉ số đầu tiên phản ánh sự phát triển của khu công nghệ cao ở Trung Quốc, được xuất bản lần đầu tiên bởi Cục Thống kê thành phố Bắc Kinh vào năm 2004 với việc tham khảo dữ liệu từ sáu tháng đầu năm 2004. Chỉ số này bao gồm năm nhóm chỉ số và mỗi nhóm trong số đó chứa một số chỉ số phụ. Năm chỉ số là Tăng trưởng kinh tế, Kinh tế hiệu quả, đổi mới công nghệ, vốn con người và phát triển doanh nghiệp.

Zhong Guancun Index (2018) là chỉ số mới nhất, do Viện Zhong Guancun của Viện Đổi mới & Phát triển và Phát triển Kinh tế Fangdi Bắc Kinh ban hành vào ngày 2 tháng 11, 2018. Trong báo cáo năm 2018, Chỉ số Zhong Guancun bao gồm năm Chỉ số phụ, 11 trụ cột, các chỉ số và chỉ số giám sát. Đặt Thời kỳ gốc là năm 2013 và đặt 100 là giá trị chuẩn, chúng ta có thể nhận được 200,9 cho năm 2017.

Báo cáo giám sát năng lực đổi mới của các trường đại học ở Trung Quốc

Cho đến nay, chỉ có Báo cáo Giám sát Năng lực Đổi mới của các trường Đại học ở Trung Quốc (2016) mới được công bố, là sản phẩm được hợp tác phát hành bởi Bộ Giáo dục Trung Quốc và Bộ Khoa học và Công nghệ PRC vào ngày 9 tháng 10 năm 2017. Các nguồn dữ liệu chính cho báo cáo bắt nguồn từ cơ sở khoa học và thống kê công nghệ của các trường đại học ở Trung Quốc từ năm 2005 đến năm 2014 và dữ liệu nghiên cứu về sự đổi mới của các trường đại học trong năm 2015. Báo cáo nhằm theo dõi tình trạng tổng thể và đặc điểm của năng lực đổi mới trong các trường đại học Trung Quốc thông qua năm Chỉ số phụ – Nền tảng thông tin cơ bản, Đào tạo nhân tài, Hoạt động nghiên cứu và phát triển, Chuyển đổi thành tựu khoa học và công nghệ, và hợp tác công nghiệp-trường đại học- nghiên cứu, và 75 trụ cột khác.

Báo cáo chỉ số về năng lực đổi mới sáng tạo của trường đại học ở Trung Quốc

Báo cáo Chỉ số về Năng lực Đổi mới sáng tạo của các trường Đại học ở Trung Quốc (2017) được lấy làm tài liệu tham khảo. Báo cáo sử dụng Phân tích thành phần chính để Đánh giá năng lực đổi mới của 64 các trường đại học trực thuộc Bộ Giáo dục Trung Quốc dựa trên “4-12-35” hệ thống chỉ số Đánh giá và số liệu thống kê từ năm 2014 đến năm 2016. Báo cáo cho thấy rằng ba đại học đứng đầu là Đại học Thanh Hoa, Đại học Bắc Kinh và Đại học Giao thông Thượng Hải.

Tài liệu tham khảo

1. A Comparative Study of Measurement of Innovation Capability between China and the West, ZhiPing Guo1 Lin Ca,  Advances in Social Science, Education and Humanities Research, volume 334

2. China’s Innovation Index in 2020

Tổng hợp: Lê Thị Quỳnh Hoa – Trung tâm Thông tin sở hữu công nghiệp

Nguồn: Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam